Luật sư tư vấn và soạn thảo hợp đồng bảo đảm tại Hà Nội. Liên hệ: 0387696666

Thứ tự ưu tiên thanh toán khi một tài sản bảo đảm cho nhiều nghĩa vụ trong hợp đồng bảo đảm?

Thứ tự ưu tiên thánh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định như sau:

1. Trong trường hợp giao dịch hợp đồng bảo đảm được đăng ký thì việc xác định thứ tự ưu tiên thanh toán khi xử lý tài sản bảo đảm được xác định theo thứ tự đăng ký;

2. Trong trường hợp một tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà có giao dịch bảo đảm có đăng ký, có giao dịch bảo đảm không đăng ký thì giao dịch bảo đảm có đăng ký được ưu tiên thanh toán;

3. Trong trường hợp một tài sản dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ dân sự mà các giao dịch bảo đảm đều không có đăng ký thì thứ tự ưu tiên thanh toán được xác định theo thứ tự xác lập giao dịch bảo đảm


Chúng ta có các biện pháp bảo đảm như: cầm cố, thế chấp, ký cược, đặt cọc, ký quỹ, bảo lãnh. Bộ luật Dân sự (BLDS) Việt Nam còn quy định về biện pháp tín chấp. Ngoài ra trong thực tiễn kinh doanh, các bên còn áp dụng các BPBĐ khác là biến thể của các BPBĐ trên như bảo lãnh ngân hàng, tín dụng dự phòng… Các BPBĐ theo pháp luật Việt Nam không bắt buộc có sự chuyển dịch quyền sở hữu tài sản từ người bảo đảm sang người nhận bảo đảm.


Xử lý tài sản bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm

Việc xử lý tài sản bảo đảm được thực hiện trong ba trường hợp: khi đến hạn thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm mà bên có nghĩa vụ không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ; bên có nghĩa vụ phải thực hiện nghĩa vụ được bảo đảm trước thời hạn do vi phạm nghĩa vụ theo thỏa thuận hoặc theo quy định của pháp luật và trong trường hợp khác do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật có quy định.

Bên bảo đảm và bên nhận bảo đảm có quyền thỏa thuận một trong bốn phương thức xử lý tài sản cầm cố, thế chấp sau đây: bán đấu giá tài sản; bên nhận bảo đảm tự bán tài sản; bên nhận bảo đảm nhận chính tài sản để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm; và theo phương thức khác, như bù trừ nghĩa vụ trả nợ.

Trường hợp không có thỏa thuận về bốn phương thức xử lý tài sản bảo đảm này thì tài sản được bán đấu giá, trừ trường hợp luật có quy định khác.


Trong 9 biện pháp bảo đảm có thể phân thành ba nhóm khác biệt nhau về việc xử lý tài sản bảo đảm như sau:

  1. Thứ nhất, nhóm biện pháp bảo đảm nếu có vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm sẽ được quyền sở hữu tài sản bảo đảm. Cụ thể, bên nhận đặt cọc, ký cược và ký quỹ sẽ được quyền sở hữu tài sản đặt cọc, ký cược và ký quỹ;
  2. Thứ hai, nhóm biện pháp bảo đảm nếu có vi phạm nghĩa vụ được bảo đảm thì bên nhận bảo đảm được quyền xử lý tài sản bảo đảm. Cụ thể, bên nhận cầm cố, thế chấp, bảo lãnh được quyền xử lý tài sản cầm cố, thế chấp và bảo lãnh theo thỏa thuận và theo quy định của pháp luật;
  3. Thứ ba, nhóm biện pháp bảo đảm còn lại thì không bao giờ có việc xử lý tài sản bảo đảm. Cụ thể là tín chấp (vì không có tài sản bảo đảm), bảo lưu quyền sở hữu (chỉ có tài sản của chủ sở hữu trong quan hệ hợp đồng mua bán, chứ không có tài sản bảo đảm) và cầm giữ tài sản (chỉ có tài sản của người có nghĩa vụ thanh toán bị cầm giữ trong quan hệ hợp đồng mua bán, chứ không có tài sản bảo đảm).

Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định 9 biện pháp bảo đảm, nhưng chỉ quy định việc xử lý đốì với hai loại tài sản cầm cố và thế chấp vì các lý do như sau:

  1. Thứ nhất, đối với hai biện pháp đặt cọc và ký cược, không cần phải quy định cụ thể việc xử lý tài sản bảo đảm, vì đã có quy định nếu bên đặt cọc, bên ký cược vi phạm nghĩa vụ thì tài sản đặt cọc, ký cược thuộc về bên nhận đặt cọc, nhận ký cược;
  2. Thứ hai, đối với biện pháp ký quỹ, không cần quy định cụ thể việc xử lý tài sản bảo đảm, vì đã có quy định nếu bên ký quỹ vi phạm nghĩa vụ thì bên có quyền được tổ chức tín dụng nơi ký quỹ thanh toán, bồi thường thiệt hại do bên có nghĩa vụ gây ra, bằng số tiền ký quỹ, sau khi trừ chi phí dịch vụ;
  3. Thứ ba, đối với biện pháp bảo lưu quyền sở hữu, không có việc xử lý tài sản bảo đảm, vì nếu bên mua tài sản vi phạm nghĩa vụ thanh toán thì bên bán có quyền đòi lại tài sản bảo lưu quyền sở hữu;
  4. Thứ tư, đối với biện pháp bảo lãnh, tuỳ theo từng thời kỳ, mà có hay không có tài sản kèm theo. Tuy nhiên, các Bộ luật Dân sự năm 1995, 2005, 2015 đã không quy định về việc xử lý tài sản bảo lãnh, vì nếu bảo lãnh không bằng tài sản nhưng khi phải thực hiện nghĩa vụ bảo lãnh thì vẫn có thể phải xử lý tài sản của bên bảo lãnh (tuy không phải là tài sản bảo đảm). Và đặc biệt Bộ luật Dân sự năm 2015 đã quy định cả việc bảo lãnh bằng tài sản, nhưng lại “quên” việc quy định xử lý tài sản bảo lãnh (là tài sản bảo đảm). Vậy, có thể suy luận, Bộ luật Dân sự năm 2015 đã mặc nhiên coi tài sản bảo lãnh cũng chính là tài sản cầm cố hoặc thế chấp;
  5. Thứ năm, đối với biện pháp tín chấp thì không bao giờ có tài sản bảo đảm, nên không đặt ra vấn đề xử lý tài sản bảo đảm;
  6. Thứ sáu, đối với biện pháp cầm giữ tài sản, không có việc xử lý tài sản bảo đảm, vì nếu có việc vi phạm nghĩa vụ phát sinh từ hợp đồng song vụ thì bên cầm giữ chỉ có quyền yêu cầu bên có nghĩa vụ phải thực hiện đầy đủ nghĩa vụ và thanh toán chí phí cần thiết cho việc bảo quản, giữ gìn tài sản cầm giữ.

Thứ tự ưu tiên xử lý tài sản bảo đảm trong hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ như sau:

Nghĩa vụ trả nợ có bảo đảm được ưu tiên trước nghĩa vụ trả nợ không có bảo đảm. Nếu có nhiều nghĩa vụ trả nợ cùng có tài sản bảo đảm thì được ưu tiên theo thứ tự có hiệu lực đối kháng đối với người thứ ba (nắm giữ tài sản cầm cố hay đăng ký thế chấp tài sản trước).

Bộ luật Dân sự năm 2005 trước đây quy định tiền bán tài sản bảo đảm được thanh toán theo thứ tự sau đây: chi phí bảo quản, bán tài sản và xử lý tài sản; nợ gốc, lãi, tiền phạt, tiền bồi thường thiệt hại nếu có. Tuy nhiên, Bộ luật Dân sự năm 2015 không còn quy định cụ thể về thứ tự thanh toán các nghĩa vụ được bảo đảm khi bán tài sản bảo đảm.

Do vậy, khi bán tài sản bảo đảm thì thứ tự thu nợ gốc và lãi thế nào là do sự thỏa thuận của các bên. Riêng với các tổ chức tín dụng, “đối với khoản nợ vay bị quá hạn trả nợ, tổ chức tín dụng thực hiện theo thứ tự nợ gốc thu trước, nợ lãi tiền vay thu sau” từ tiền bán tài sản bảo đảm.


Nguyên tắc xử lý tài sản trong hợp đồng bảo đảm nghĩa vụ bằng tài sản như sau:

  • Thứ nhất, trong trưòng hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện một nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận của các bên; nếu không có thỏa thuận thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật;
  • Thứ hai, trong trường hợp tài sản được dùng để bảo đảm thực hiện nhiều nghĩa vụ thì việc xử lý tài sản đó được thực hiện theo thỏa thuận của bên bảo đảm và các bên cùng nhận bảo đảm; nếu không có thỏa thuận hoặc không thỏa thuận được thì tài sản được bán đấu giá theo quy định của pháp luật;
  • Thứ ba, việc xử lý tài sản bảo đảm phải được thực hiện một cách khách quan, công khai, minh bạch, bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của các bên tham gia giao dịch bảo đảm, cá nhân, tổ chức có liên quan và phù hợp với các quy định của pháp luật;
  • Thứ tư, người xử lý tài sản bảo đảm là bên nhận bảo đảm hoặc người được bên nhận bảo đảm ủy quyền, trừ trưòng hợp các bên tham gia giao dịch bảo đảm có thỏa thuận khác. Người xử lý tài sản căn cứ nội dung đã được thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm để tiến hành xử lý tài sản bảo đảm mà không cần phải có văn bản ủy quyền xử lý tài sản của bên bảo đảm;
  • Thứ năm, việc xử lý tài sản bảo đảm để thu hồi nợ không phải là hoạt động kinh doanh tài sản của bên nhận bảo đảm;
  • Thứ sáu, trong trường hợp tài sản bảo đảm là quyền sử dụng đất, nhà ở thì tổ chức, cá nhân mua tài sản bảo đảm hoặc nhận chính tài sản bảo đảm để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ của bên bảo đảm phải thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất; trường hợp tổ chức, cá nhân không thuộc đối tượng được cấp Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất, quyền sở hữu nhà ở và tài sản khác gắn liền với đất thì chỉ được hưởng giá trị quyền sử dụng đất, giá trị nhà ở.

 

Bài viết liên quan